image banner
Bài giới thiệu về cuốn Lịch sử Đảng bộ xã Nga Điền (tái bản, chỉnh lý và bổ sung lần thứ 2)

 

         Kính thưa toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân: Để góp phần giáo dục truyền thống cách mạng, truyền thống lịch sử cho các thế hệ cán bộ, đảng viên và nhân dân, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Nga Điền (nhiệm kỳ 2020 - 2025) phối hợp cùng với Hội khoa học lịch sử tỉnh Thanh Hoá đã tiếp tục nghiên cứu, chỉnh lý, bổ sung và tái bản cuốn sách Lịch sử Đảng bộ xã Nga Điền (1949 - 2024) nhân dịp kỷ niệm 75 năm ngày thành lập Đảng bộ xã Nga Điền.

Đây là công trình lịch sử được nghiên cứu nghiêm túc, công phu, nhằm góp phần giáo dục truyền thống của quê hương đối với cán bộ, đảng viên và Nhân dân, nhất là thế hệ trẻ; qua đó, khơi dậy tinh thần tự hào và củng cố niềm tin cho các tầng lớp nhân dân cùng chung sức xây dựng xã Nga Điền phát triển bền vững, văn minh, hiện đại.

Nội dung cuốn sách Lịch sử Đảng bộ xã ngoài phần giới thiệu và kết luận còn có 6 chương. Sau đây xin kính mời toàn thể quý vị theo dõi phần trích nội dung tại Chương I - Nga Điền - vùng đất, con người và truyền thống lịch sử, văn hoá.

II. Qúa trình hình thành và tên gọi

Huyện Nga Sơn ngày nay là vùng đất cổ, sớm có con người định cư. Theo các nguồn tài liệu hiện có, vào thời thuộc Minh (thế kỷ thứ 15) huyện Nga Sơn có tên là huyện Nga Lạc. Đầu thời Lê Trung Hưng (thế kỷ thứ 16) gọi là huyện Nga Giang. Sau thời Lê Trung Hưng (thời kỳ vua Lê - chúa Trịnh, thế kỷ 18) đổi tên là huyện Nga Sơn, phủ Hà Trung. Trải qua nhiều thời kỳ, phạm vi hành chính huyện không thay đổi, có chăng chỉ thay đổi địa giới các xã, các tổng trong huyện. Theo cuốn "Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ 19", phủ Hà Trung gồm 4 huyện, trong đó huyện Nga Sơn có 6 tổng, 100 xã, thôn, trang, sở, giáp. Đó là tổng Thạch Tuyền, tổng Phi Lai, tổng Mậu Lâm, tổng Đông Bột, tổng Đô Bái, tổng Cao Vịnh và xã Thần Phù. Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, xã Nga Điền ngày nay gồm 3 làng: Chính Đại, Tòng Chính, Tân Chính. Tháng 4 năm 1948, ủy ban kháng chiến hành chính xã Điền Hộ được thành lập, tên xã Điền Hộ (Nga Điền ngày nay) có từ đây. Đến cuối năm 1957 đầu năm 1958, Ủy ban hành chính tỉnh Thanh Hóa đã đổi tên xã Điền Hộ thành xã Nga Điền.

Trải qua hàng trăm năm lịch sử, lớp cha trước, lớp con sau, các thế hệ người Nga Điền ngày nay đã góp phần xây dựng nên vùng quê trù phú, giàu đẹp. Trong 75 năm qua, xã Nga Điền trở thành một trong 24 đơn vị hành chính trực thuộc huyện Nga Sơn đã không ngừng phát triển hòa nhịp bước đi lên của các xã trong huyện nói riêng và trong tỉnh nói chung. Hiện nay xã có 8 thôn: thôn 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7 và 8 và tương đương với các làng như sau: làng Tòng Chính (thôn 1), làng Tân Tòng (thôn 2), làng Điền Hộ (thôn 3), làng Giáp Nam (thôn 4), làng Tân Tiến (thôn 5), làng Thanh Bình (thôn 6), làng Chính Đại (thôn 7) và làng Chính Đại Mới (thôn 8). Quá trình hình thành các làng như sau (theo thứ tự từ thôn 1 đến thôn 8):

- Làng Tòng Chính: hiện nay là thôn 1, có diện tích tự nhiên là 55,9ha. Làng Tòng Chính được tách từ làng Chính Đại năm 1830(1) do hai ông Đinh Đạt Huấn và Đinh Đạt Lương là giáo dân ở Chính Đại đứng ra chiêu dân lập làng nên lấy tên là Tòng Chính (có nghĩa là từ Chính Đại ra) tổng Tân Phong, sau đó 7 hộ thuộc hai dòng họ là họ Trần và họ Phạm từ vùng quê làng Trà Lũ xưa di cư vào Thanh Hóa, thấy nơi đây đất tốt ở lại làm ăn sinh sống. Năm 1871, làng được chia thành 3 giáp: giáp Nam, giáp Tây, giáp Đông. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, làng có khoảng 50 hộ gồm 250 khẩu, trong đó có 98% bà con theo đạo Công giáo. Năm 1945, làng Tòng Chính sáp nhập với làng Tân Chính thành xã Điền Hộ. Năm 1958, Ủy ban hành chính tỉnh đổi tên xã Điền Hộ thành xã Nga Điền làng Tòng Chính thuộc xã Nga Điền cho đến ngày nay. Hiện nay thôn có 291 hộ và 1326 nhân khẩu.

- Làng Tân Chính: được tách ra từ làng Chính Đại. Thành lập vào năm 1846, những người dân đến vùng đất này chủ yếu là những người nông dân từ Ninh Bình và Nam Định, 100% bà con theo đạo Công giáo. Làng Tân Chính bao gồm các thôn 5, 6 và thôn Tân Phát (sau năm 1954 chuyển thôn Tân Phát về xã Nga Phú).

- Làng Tân Tòng: hiện nay là thôn 2 có 31ha. Làng Tân Tòng được tách ra từ làng Tòng Chính vào năm 1935, vị trí của làng là trung tâm xã, có chợ Điền Hộ, trung tâm buôn bán không chỉ trong xã, trong huyện mà còn là nơi giao lưu buôn bán của các tỉnh phía Bắc. Đến năm 1958, xã Điền Hộ đổi tên thành xã Nga Điền. Làng Tân Tòng đổi thành thôn 2 của xã Nga Điền. Năm 1991, giữ lại tên làng Tân Tòng cho đến ngày nay. Hiện nay thôn có 212 hộ và 930 nhân khẩu.

- Làng Điền Hộ (thôn 3): có 28,63ha. Làng Điền Hộ trước kia là giáp Đông của làng Tòng Chính, có chiều dài 900m, dọc theo sông Càn. Làng có 9 dòng họ, trong đó họ Trần và họ Nguyễn là đến sớm hơn. Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, làng có khoảng 40 hộ với 175 khẩu sinh sống tập trung ở giữa thôn và ven đê sông Càn. Nhân dân có 2/3 theo đạo Công giáo. Đến năm 1958, đổi tên xã Điền Hộ thành xã Nga Điền cho đến ngày nay. Hiện nay thôn có 221 hộ và 839 nhân khẩu. Thôn có nghề truyền thống nấu rượu.

- Làng Giáp Nam: hiện nay là thôn 4, làng có diện tích tự nhiên là 140,5ha. Năm 1871 làng Tòng Chính chia thành các giáp, giáp Nam thuộc làng Tòng Chính. Làng Giáp Nam có chiều dài 1km dọc theo sông Càn. Làng có 12 dòng họ, 100% theo đạo Công giáo. Đến năm 1958, xã Điền Hộ đổi thành xã Nga Điền, giáp Nam đổi gọi là xóm 4 nay là thôn 4. Thôn hiện nay có 358 hộ và 1371 nhân khẩu.

- Làng Tân Tiến: hiện nay là thôn 5, làng có diện tích tự nhiên là 98,5ha. Làng Tân Tiến được thành lập làng cách đây trên 200 năm. Lúc đầu làng có tên là làng Tại Tây hay còn gọi là làng Tây. Sau đó gọi là làng Tân Chính, Tân Phong, Tân An. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, làng có 27 hộ với 200 khẩu. Hiện nay, thôn có 279 hộ và 1.267 nhân khẩu (100% Nhân dân theo đạo Công giáo).

- Làng Thanh Bình (thôn 6): trước đây thuộc giáp Đông làng Tòng Chính. Làng có chiều dài trên 3km dọc theo sông Càn Cụt. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, làng có 27 hộ, năm 1961 là xóm 6 nay là thôn 6. Thôn 6 hiện nay có diện tích tự nhiên là 178,25 ha có 307 hộ và 1.182 nhân khẩu (100% theo đạo Công giáo).

- Làng Chính Đại (nay là thôn 7): nơi có “Bia Thần”, có cửa Thần Phù hay còn gọi là “Tạc giang hải khẩu”. Làng được hình thành khoảng năm 1756, lúc đó có 4 hộ dân thuộc 4 họ Mai, Lã, Đinh, Chu đều hành nghề ngư nghiệp trên cửa biển Thần Phù. Qua nhiều năm biển bồi, đất liền được hình thành cùng với một dòng sông Hoạt Giang tạo thành ngã ba sông ở giữa làng. Một nhánh vào Thanh Hóa, một ngách ra Ninh Bình và một nhánh chảy ra biển Đông. Sau đó, một số hộ dân đến thêm thuộc các họ Hoàng, Nguyễn, Đào, Ngô, Vũ, Phạm, Bùi... Khi có khoảng 40 đến 50 hộ mới thành lập làng theo sự hướng dẫn của chính quyền lúc ấy được đặt tên là làng “Quang Minh Chính Đại”. Dân làng chủ yếu cư ngụ ở hai bên ngã ba sông. Làng có chiều dài 5km, từ chùa Hàn Sơn, phía đông bắc tới bia thần phía tây nam, phía đông nam là đầu núi lợn, xung quanh được bao bọc bởi dãy núi Tam Điệp, chạy dọc theo làng là sông Hoạt. Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, làng có gần 500 khẩu, hiện nay làng đã được chia thành 2 làng: Chính Đại và Chính Đại mới. Làng Quang Minh Chính Đại là một quần thể di tích văn hóa, phía tây là dãy núi bia Thần có Bia trên vách núi, có chữ Thần và 4 chữ Hán là “Nhật Nam Nguyên Chủ” phía dưới chạy dọc từ núi bia Thần đến núi Thung Treo có động Chùa Hang, Động Lục Vân và hang Lã Vọng, khi thời tiết thay đổi tiếng trống dưới hang đánh liên hồi vang...phía bắc và đông bắc giáp tỉnh Ninh Bình ngăn cách bởi núi Cọc Đó và núi Cồn Xe. Phía sau làng là núi ông Tiến Sĩ, phía Nam là núi Thủ Lợn hướng chạy dài ra biển Đông. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, dưới chế độ phong kiến tổ chức làng chia thành 5 giáp, 4 phe. Mỗi phe, giáp được cấp 2 mẫu ruộng có đủ bộ máy “ngũ hương” quản lý. Làng Chính Đại thuộc tổng Tân Phong. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, thực hiện chủ trương bỏ đơn vị hành chính cấp tổng, tổng Tân Phong hết vai trò lịch sử. Chính Đại là 1 làng thuộc xã Kiên Giáp. Sau khi thực dân Pháp nhảy dù xuống Phát Diệm (huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình) và đổ bộ chiếm Điền Hộ, Nhân Phú, Liên Sơn. Ngày 17/12/1949, Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh ra Quyết định số 72 tách làng Chính Đại thuộc xã Kiên Giáp sáp nhập vào xã Điền Hộ. Làng Chính Đại chia làm 2 thôn là: thôn 7 và 8. Sông Hoạt bắt đầu từ sông Lèn chảy qua xã Nga Lĩnh (cũ) đi qua các xã: Nga Thắng, Ba Đình, Nga Vịnh, Nga Trường, Nga Thiện đến Nga Điền (đoạn từ xã Nga Thắng đến Nga Thiện giáp huyện Hà Trung).

Ngày 29/6//1954, xã Điền Hộ cùng với Nhân Phú, Liên Sơn được giải phóng, 2 thôn 7 và 8 thuộc làng Chính Đại. Bên cạnh nghề trồng trọt, chăn nuôi, làng Chính Đại có nghề nấu rượu truyền thống7. Đến năm 1991, làng Chính Đại chia thành làng Chính Đại và làng Chính Đại Mới cho đến ngày nay. Thôn 7 hiện nay có 460 ha với 168 hộ và 578 nhân khẩu.

- Làng Chính Đại Mới (thôn 8): có 109,2ha diện tích tự nhiên với 258 hộ với 890 khẩu. Có thể thấy quá trình hình thành cộng đồng dân cư ở Nga Điền có lịch sử từ rất lâu đời. Các thế hệ người dân Nga Điền đã khai phá và mở rộng đất đai, tạo dựng thôn làng và đồng ruộng. Mỗi thôn, làng có một bản sắc văn hóa truyền thống theo phong tục tập quán riêng, mang tính đặc thù của mỗi làng quê Việt Nam. Dù có thời kỳ tên đất, tên thôn thay đổi, chia tách nhiều lần, nhưng cái tên thôn, tên thôn vẫn là hồn cốt, là tình cảm thiêng liêng nhất để người dân nơi đây gìn giữ cội nguồn, bản sắc, là sợi dây kết nối giữa hiện đại và truyền thống của các thế hệ người dân trên vùng đất này.

 

Tin nổi bật
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement

image advertisement

Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1

CƠ QUAN CHỦ QUẢN: UBND Xã Nga An
Địa chỉ: UBND Xã Nga An
Email:......
Trưởng Ban biên tập: .....; Chức vụ: .......
Ghi rõ nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa xã Nga An hoặc ngaan.thanhhoa.gov.vn khi bạn phát hành lại thông tin từ Website này.

Website được thiết kế bởi VNPT